Phân biệt khí hư sinh lý và khí hư bệnh lý

23:07 |

Nhiều chị em hay nhầm lẫn giữa khí hư sinh lý và khí hư bệnh lý nên nhiều lúc chủ quan, đến khi đi khám thì bệnh đã tiến triển đến giai đoạn nặng.

Nhiều chị em hay nhầm lẫn giữa khí hư sinh lý và khí hư bệnh lý nên nhiều khi chủ quan, đến khi đi khám thì bệnh đã tiến triển đến giai đoạn nặng. 

Vậy ranh giới giữa khí hư sinh lý và khí hư bệnh lý là gì?

Khí hư không chỉ giữ cho âm đạo luôn có một độ ẩm nhất định mà còn có tác dụng chống các vi khuẩn gây bệnh xâm nhập cơ thể. Nó được hình thành do tác động của nội tiết tố nữ estrogen, có tác dụng giữ ẩm cho âm  đạo, tạo điều kiện thuận lợi cho tinh trùng vào tử cung khi có trứng rụng, cản trở các vi khuẩn gây bệnh xâm nhập cơ thể. Bình thường ở bộ phận sinh dục bao giờ cũng có một ít dịch trong suốt, không mùi. Đó là khí hư sinh lý, đới hạ (huyết trắng).

Số lượng và tính chất của khí hư thay đổi tùy theo từng giai đoạn trong chu kỳ kinh nguyệt. Ở giai đoạn trước và sau khi trứng rụng, khí hư thường ít và không dai. Ở thời điểm rụng trứng, khí hư thường nhiều, loãng và dai.

Ở tuổi dậy thì, buồng trứng dần dần phát triển và tiết ra chất kích thích khiến bộ máy sinh dục sản sinh ra các chất nội tiết, trong đó có khí hư. Đến tuổi trưởng thành, buồng trứng phát triển hoàn thiện, hàng tháng đều tiết ra Estrogen và Progesteron, vì thế lượng khí hư xuất hiện và thay đổi theo chu kỳ, tùy thuộc hàm lượng của Estrogen nhiều hay ít. Sau khi hết đợt hành kinh, bạn có thể thấy khô ở cửa mình, không có dịch tiết. Tuy nhiên, khoảng thời gian giữa chu kỳ kinh nguyệt, lượng Estrogen tăng lên, dịch tiết ra ngày càng nhiều, vì thế làm cho chị em cảm thấy ẩm ướt, khó chịu ở cửa mình.

Sau rụng trứng, lượng Estrogen giảm, lượng Progesteron tăng lên, ức chế việc tiết ra chất nhày ở cổ tử cung làm dịch tiết mất đi độ ướt, trở nên đặc dính. Ở một số bạn, nó biến mất hẳn, một số lại có dịch đặc cho đến tận kỳ kinh sau; một số bạn khác khi sắp hành kinh lại có dịch loãng… Đó là những thay đổi thông thường của dịch tiết âm đạo.

Bên cạnh khí hư sinh lý, khí hư sẽ trở thành bệnh lý với một số biểu hiện: dịch đặc, hôi tanh, nhiều, thường có màu vàng, xanh, có bọt hay không tùy thuộc tác nhân gây bệnh nguyên nhân thường do virus, vi khuẩn, ký sinh trùng.

Thường bệnh nhẹ thì chị em khó phân biệt giữa khí hư bệnh lý hay sinh lý, phải do các bác sĩ chẩn đoán mới phát hiện. Bệnh nặng có kèm theo các triệu chứng toàn thân như mệt mỏi, gầy sút, kém ăn, lưng đau mỏi gối, suy kiệt. Bệnh bạch đới làm đau lưng, đau trằn dạ dưới, có khi âm đạo bị khô, rát, ngứa… có thể chuyển sang thanh đới, hoàng đới, xích đới, ung thư…

Khí hư bạch đới là bệnh có tỷ lệ nữ mắc khá cao. Bệnh gây nhiều phiền toái và biến chứng nguy hiểm.

Khí hư bất thường có ảnh hưởng đến sức khỏe không, cách phòng tránh như thế nào?

Khí hư bệnh lý không gây nguy hiểm đến tính mạng nhưng nếu để tình trạng bệnh kéo dài, lây lan tái phát nhiều lần hoặc chữa trị không đến nơi đến chốn sẽ dễ gây nên những bệnh viêm nhiễm phụ khoa khác, dẫn đến nguy cơ vô sinh, ung thư cổ tử cung ảnh hưởng đến sức khoẻ sinh sản. Phụ nữ mang thai mắc bệnh huyết trắng, hệ lụy là sinh khó, dễ xảy thai, ảnh hưởng đến sự phát triển của thai nhi, nặng nề nhất có thể dẫn tới tử vong. Đặc biệt huyết trắng bệnh lý gây phiền toái khó chịu trong sinh hoạt vợ chồng, ảnh hưởng trực tiếp tới hạnh phúc lứa đôi.

Vệ sinh cơ thể, vệ sinh bộ phận sinh dục là việc làm hằng ngày của chị em. Có cuộc sống tình dục an toàn lành mạnh sẽ giúp hạnh phúc gia đình bền vững.
Read more…

Phương pháp giúp chị em phòng ngừa sẩy thai

22:54 |

Theo thống kê từ các chuyên gia phụ khoa từ phòng khám đa khoa Thiên Tâm, có đến 20% số ca sẩy thai xảy ra hàng năm khi thai nhi dưới 20 tuần tuổi. Đó là lý do vì sao sẩy thai lại trở thành nỗi lo lớn nhất của các mẹ mới có bầu.

 Nguyên nhân của sẩy thai thì có rất nhiều và trong một số trường hợp còn không thể xác định được nguyên nhân. Tuy nhiên, nếu mẹ bầu có đầy đủ kiến thức chăm sóc thai kỳ và có lối sống lành mạnh, thì sẽ hạn chế được tối đa nguy cơ này.

Dưới đây các bác sỹ phụ sản của phòng khám đa khoa Thiên Tâm chia sẻ những bí kíp nhỏ giúp giảm nguy cơ sảy thai:

Chú ý đến chế độ ăn uống

Khi mang thai, cần có chế độ dinh dưỡng cân đối, uống bổ sung viên sắt và axit folic để tránh thiếu máu và thiếu axit folic, vì đây là một trong nguyên nhân dẫn đến suy dinh dưỡng và gây sẩy thai. Việc bổ sung dinh dưỡng nên được thực hiện ngay từ trước khi mang thai vì vậy chị em nên lập kế hoạch cho việc bầu bí trước từ 3-6 tháng.

Tránh chất kích thích

Chưa có một bằng chứng khoa học nào chứng tỏ rượu an toàn với phụ nữ mang thai, đặc biệt là ở phụ nữ mang thai 3 tháng đầu khi tất cả các bộ phận quan trọng của bé đang hình thành.

Tránh vận động mạnh

Những môn thể thao ưa vận động mạnh hoặc rơi từ trên xuống cần phải được cẩn trọng. Tốt nhất là bạn nên bảo vệ phần bụng tốt nhất cho đến cuối thai kỳ.

Khám thai định kỳ

Nên đi khám thai định kỳ tại cơ sở y tế có chuyên khoa sản. Nếu phát hiện bất thường như hở eo tử cung, bác sĩ sẽ có chỉ định khâu vòng eo cổ tử cung sớm (tuần lễ thứ 14-15 thai kỳ) để tránh sẩy thai. Đây là thủ thuật khá đơn giản, bệnh nhân không phải nằm viện lâu. Việc khám thai định kỳ cũng giúp bác sĩ sớm phát hiện những bất thường có thể xảy ra với mẹ bầu và kịp thời xử trí.

Giữ vệ sinh cá nhân

Nên giữ vệ sinh cá nhân và vệ sinh giao hợp vì tình trạng nhiễm khuẩn âm đạo, tử cung cũng là nguyên nhân gây sẩy thai.

Khám thai thường xuyên giúp phát hiện sớm những nguy cơ xấu. (ảnh minh họa)

Không tự ý dùng thuốc

Bà bầu không tự ý dùng thuốc, cho dù là thuốc cảm thông thường hoặc thuốc bổ. Khi dùng thuốc cần có sự hướng dẫn của bác sĩ.

Chú ý độ tuổi mang thai

Theo giới chuyên môn, nguy cơ sẩy thai gia tăng theo độ tuổi. Theo Hiệp hội Sản khoa Mỹ, những phụ nữ tuổi từ 35 – 45 đối diện với sự gia tăng từ 20-25% nguy cơ bị sẩy thai. Trong khi không có biện pháp nào để kéo giảm nguy cơ sẩy thai do tuổi của người mẹ ảnh hưởng đến quá trình thai nghén, chị em được khuyến khích nên có thai trước 35 tuổi.

Lưu ý dấu hiệu cảnh báo sẩy thai

Tình trạng xuất huyết có thể đi kèm với chứng co cơ, những mô kèm huyết được đẩy ra khỏi âm đạo, chứng đau lưng từ nhẹ cho tới dữ dội hoặc sụt cân bất ngờ là một vài dấu hiệu thông thường nhất báo động chị em có thể đối diện với nguy cơ bị sẩy thai. Vì thế, khi các thai phụ nhận thấy có một hoặc nhiều các triệu chứng trên, cần đến bệnh viện để kiểm tra càng sớm càng tốt.

Lưu ý đối với mẹ bầu có tiền sử sẩy thai quen dạ nên được sự chăm sóc đặc biệt của bác sĩ và thăm khám thai kỳ thường xuyên.
Read more…

Mẹo nhỏ giúp chị em phòng bệnh phụ khoa

22:40 |
1. Bỏ thói quen hút thuốc cải thiện khả năng sinh sản

Hút thuốc có hại cho sức khỏe là sự thật mà ai cũng biết, nhưng ít người biết rằng hút thuốc làm tăng nguy cơ sẩy thai. Hơn nữa, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra được rằng nguy cơ vô sinh, sinh non, thai nhi bị dị tật có mối liên hệ chặt chẽ với thói quen hút thuốc lâu dài.

Vì vậy, để cải thiện khả năng sinh sản, chị em cần bỏ ngay thói quen hút thuốc.

2. Tập Kegel chữa són tiểu

Ở độ tuổi 30, khoảng 30% chị em mắc chứng són tiểu khi di chuyển các vật nặng, cười, nhảy và các hoạt động vất vả khác. Lý do quan trọng nhất là do sự suy giảm chức năng cơ do sinh nở.

Tại thời điểm sinh, cơ bắp xung quanh niệu đạo bị kéo mạnh, sau đó có thể phục hồi kém, dẫn đến mất tính đàn hồi.

Mẹo nhỏ để khắc phục tình trạng này là chị em có thể thực hiện kiên trì bài tập Kegel - bài tập cho các cơ vùng chậu giúp phục hồi chức năng cơ vùng khung chậu, kiểm soát đường tiểu tốt hơn. Bài tập này còn giúp thu nhỏ “cô bé” với những phụ nữ sau sinh nở.

3. Uống vitamin C và E phòng ung thư buồng trứng 

Ung thư buồng trứng là một bệnh ung thư gây tỷ lệ tử vong cao nhất. Giai đoạn đầu mắc bệnh không có triệu chứng, một khi đã có những triệu chứng lâm sàng biểu hiện thì tức là bệnh thường ở giai đoạn muộn. Do đó khả năng điều trị khỏi bệnh gần như là không thể. 

Nhưng vitamin C và E có thể giúp bạn chống lại ung thư buồng trứng. Các nghiên cứu cho thấy rằng nếu tiêu thụ 90mg vitamin C và 30mg vitamin E hàng ngày thì nguy cơ ung thư buồng trứng sẽ được giảm một nửa.

4. Ăn sáng với ngũ cốc, phòng ung thư cổ tử cung

30% phụ nữ mắc bệnh ung thư cổ tử cung có hàm lượng axit folic thấp hơn đáng kể so với người không mắc bệnh. Để khắc phục điều này rất đơn giản. Ăn sáng hàng ngày với ngũ cốc có thể đáp ứng nhu cầu folate cần thiết cho cơ thể bạn, giảm nguy cơ ung thư cổ tử cung.

5. Chơi thể thao - Chống ung thư vú 

Ung thư vú có ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe thể chất cũng như tinh thần của người phụ nữ và thậm chí nguy hiểm đến tính mạng.

Tuy nhiên, duy trì một số hoạt động thể chất nhất định sẽ có hiệu quả trong việc làm giảm sự tăng trưởng của các tế bào ung thư vú. Vận động cơ bắp nhiều hơn 5 giờ mỗi ngày, nguy cơ ung thư vú sẽ được giảm 31-41%.

6. Tự kiểm tra bộ phận sinh dục, phòng bệnh phụ khoa

Tự kiểm tra "vùng kín" có thể giúp bạn phát hiện sớm các bệnh ở âm đạo và được điều trị sớm.

"Vùng kín" có đốm đen - có thể là một triệu chứng của ung thư âm hộ. Ung thư âm hộ là một dạng hiếm của ung thư da, nếu không được điều trị sớm có thể gây tử vong. Nếu được phát hiện kịp thời, khả năng khỏi bệnh là 90%.

Những đốm trắng xuất hiện ở bộ phận sinh dục là biểu hiện của bệnh vẩy nến. Nếu có ngứa thì là do sự mất cân bằng nội tiết. Bệnh này cần được chữa trị kịp thời, nếu không sẽ gây teo môi âm hộ.

7. Phòng các nhiễm trùng "vùng kín" - ngủ nude

Bạn cần thở không khí trong lành mỗi ngày, cơ thể bạn cũng cần như vậy, nhất là "vùng kín". Khu vực này rất nhạy cảm, nếu nó bị bí bách cả ngày, nhiều khả năng sẽ gia tăng vi khuẩn, vô tình gây bệnh nhiễm trùng sinh dục hay các chứng dị ứng.

Vì vậy, sau khi bạn đã làm việc chăm chỉ, nằm trên giường hoàn toàn thư giãn và tạo điều kiện cho vùng kín được thoáng khí. Vậy tại sao không chọn biện pháp ngủ nude nhỉ?
Read more…

Chuẩn đoán bệnh viêm vùng chậu

23:47 |

Chẩn đoán viêm vùng chậu vẫn còn khó khăn đối với nhiều bác sĩ, kể cả những người đãcó nhiều năm kinh nghiệm lâm sàng. Độ nhạy cảm và độ đặt hiệu của chẩn đoán lâm sàng chỉ đạt khoản 50%. 

Tiêu chuẩn chẩn đoán tối hảo (gold standard) là soi ổ bụng thì mắc tiền, không thực tế cho bệnh nhân ngoại trú, và độ nhạy cảm không đạt 100%. Tiêu chuẩn này lại có thể bị tác động bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài. Siêu âm qua đường âm đạo có ích trong việc phát hiện dịch tích tụ ở hố chậu, như áp-xe vòi- buồng trứng hoặc mủ vòi trứng, nhưng không thể nhìn thấy thành của vòi trứng nên thường chỉ được dùng trong chẩn đoán các bệnh ít nguy hiểm. Trong một nghiên cứu nhỏ trên các bệnh nhân viêm vùng chậu nặng, hình ảnh được khuyếch đại rõ hơn qua siêu âm đường âm đạo (độ nhạy cảm 95%, độ đặt hiệu 89%); tuy nhiên, một số nguyên nhân như giá thành cao, bệnh nhân khó tiếp cận và dữ liệu nghiên cứu về chẩn đoán viêm vùng chậu bằng siêu âm còn hạn chế khiến cho phương pháp chẩn đoán này chưa được sử dụng rộng rãi.

Một phương cách thay thế khác dùng “Doppler mạnh” (power Doppler) để cải thiện phương pháp siêu âm qua ngã âm đạo. Siêu âm Doppler đo dòng máu chảy, và “Doppler mạnh” làm cho kỹ thuật này nhạy cảm đủ để phát hiện thiếu máu nhiều đi kèm với viêm ống dẫn trứng. Một nghiên cứu gần đây sử dụng “Doppler mạnh” qua siêu âm đường âm đạo cho thấy giá trị tiên đoán dương tính là 91% và giá trị tiên đoán âm là 100% trong một nhóm nhỏ bệnh nhân. Doppler mạnh rất hữu ích trong chẩn đoán viêm vòi trứng nhẹ không có áp-xe vùng chậu. Chứng viêm này thể phát hiện bằng siêu âm đường âm đạo thông thường. Hạn chế của kỹ thuật doppler mạnh là nó đòi hỏi người thao tác phải có chuyên môn cao để đọc và biện luận kết quả siêu âm. Hơn nữa, khó chẩn đoán phân biệt giữa khối lạc nội mạc tử cung và viêm vùng chậu (có 2 trương hợp dương tính giả) khi dùng doppler mạnh. Tuy nhiên kỹ thuật này cho thấy triển vọng trong chẩn đoán, đặt biệt đối với những bệnh nhân viêm vùng chậu nhẹ đến trung bình thường thấy ở khu điều trị ngoại trú.

Trường hợp không có thiết bị chụp hình ảnh khuyếch đại từ tính hoặc doppler mạnh thì hiện nay có cách nào khác để cải thiện chẩn đoán viêm vùng chậu không? Nghiên cứu PEACH là một thử nghiệm ngẫu nhiên lớn có kiểm chứng so sánh bệnh nhân ngoại trú và nội trú dùng cefoxitin và doxycycline tiến hành trên 1500 đối tượng. Tuy chưa có kết quả cuối cùng nhưng các nhà nghiên cứu đã báo cáo một số phân tích hữu ích lấy số liệu từ những phụ nữ có viêm vùng chậu nhẹ đến trung bình này. Những kết quả này có lẽ có tính cách khái quát hóa hơn các kết quả từ những bệnh nhân nội trú với bệnh nặng được báo cáo trong hầu hết các thử nghiệm lâm sàng.

Ngay cả trong nhóm phụ nữ với bệnh nhẹ này, nhạy cảm ở phần phụ (adnexal tenderness) trong khi khám được xem như một dấu hiệu chỉ điểm nhạy cảm của viêm nội mạc tử cung (96%). Rủi thay, độ đặc hiệu tương ứng chỉ đạt 4%; vì thế, dù việc điều trị tất cả những phụ nữ nhạy cảm phần phụ sẽ đảm bảo không bỏ sót một ca viêm vùng chậu nào, nhiều phụ nữ không có viêm vùng chậu đãđược điều trị kháng sinh khi không cần thiết. Kết hợp nhạy cảm vùng bụng dưới, nhạy cảm phần phụ, và nhạy cảm cổ tử cung khi di động làm giảm độ nhạy cảm xuống còn 83% với độ đặc hiệu 22%; điều đó cho thấy có thể bổ sung nhiều tiêu chuẩn hơn để cải thiện độ đặc hiệu nhưng lúc đó độ nhạy lại giảm. Phân tích đa biến cho thấy 2 yếu tố tiên đoán viêm nội mạc tử cung tốt nhất là kết quả xét nghiệm vi trùng dương tính (lậu hoặc chlamydia) và sự kết hợp giữa sốt với tăng bạch cầu. Theo khoa học thì triệu chứng sốt đơn thuần thường không đi kèm với viêm nội mạc tử cung. Lý giải cho điều này có thể là sốt ở đây do hậu quả của những nguyên nhân khác như viêm dạ dày ruột do virút; một chứng bệnh không làm tăng bạch cầu. Việc sử dụng hồi qui đa biến (logistic regression model) nhằm làm tăng tính thuyết phục của tiêu chuẩn lâm sàng quan trọng nhật thực sự cải thiện được độ nhạy cảm lên 62% và độ đặc hiệu lên 77%; tuy nhiên vẫn còn phải cải tiến nhiều mới hoàn chỉnh được.

Trong lần thăm khám đầu tiên, các thầy thuốc có thể tiên đoán được chứng viêm vùng chậu ở nữ bệnh nhân sẽ trở nặng không? Một nghiên cứu hồi cứu thực hiện trên 322 phụ nữ cho thấy chỉ có 2 yếu tố tuổi lớn (> 35 tuổi) và tự dùng thuốc để điều trị một cách sai lầm là các yếu tố tiên lượng thời gian nằm viện kéo dài, cần phẩu thuật hoặc tái nhập viện. Điều này không gây nhiều ngạc nhiên vì các yếu tố cộng hưởng như nhiễm chlamydia, đi khám trể, và bệnh nặng có liên quan với tình trạng tiên lượng kém trong một số nghiên cứu khác. Hồi cứu là một nhược điểm của nghiên cứu này. Mặc dù trước đây người ta cho rằng thuốc ngừa thai bằng đường uống có thể bảo vệ phụ nữ khỏi viêm vùng chậu, dữ liệu từ nghiên cứu PEACH gần đây đã làm gia tăng nghi ngờ về vấn đề này.

Mối liên hệ giữa vòng tránh thai (IUD) và viêm vùng chậu vẫn còn là một vấn đề gây nhiều tranh cãi. Một nghiên cứu tổng hợp xuất bản năm ngoái đã khảo sát lại 36 nghiên cứu và tìm thấy nguy tương đối của viêm vùng chậu có triệu chứng là 3.3 (95% CI 2.1 - 5.3) ở những phụ nữ có dùng vòng tránh thai, mặc dù phần lớn các nghiên cứu là bệnh chứng hoặc nghiên cứu cắt ngang chứ không phải là nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng. Tuy nhiên, để hiểu rõ nguy cơ gia tăng này thì cần phải quan tâm tới một số các yếu tố quan trọng sau đây.
Thứ nhất là hầu hết nguy cơ có liên quan đến vòng tránh thai chỉ xuất hiện trong vài tuần lễ đầu tiên sau khi đặt vòng; điều này phản ảnh việc đưa vi khuẩn vào trong đường sinh dục trên trong suốt thời gian đặt vòng. Vì thế theo sau yếu tố quyết định chính của viêm vùng chậu có liên quan đến việc dùng vòng tránh thai là tỷ lệ lưu hành của Chlamydia trachomatis và Neisseria gonorrhoeae, tỷ lệ này khác nhau tùy theo quần thể nghiên cứu. Thứ nhì là, các nhóm so sánh trong nhiều nghiên cứu chưa chính xác. Đặc biệt trong nhóm chứng (không dùng vòng tránh thai) thường bao gồm những phụ nữ dùng biện pháp ngừa thai khác như uống thuốc ngừa thai; một phương pháp ít gây nguy cơ viêm vùng chậu hơn nhiều so với vòng tránh thai. Hành vi tình dục, một yếu tố quyết định chính trong nguy cơ bị các bệnh lây truyền qua đường tình dục, cũng hiếm khi được gắn kết hoặc đối chứng giữa nhóm dùng vòng tránh thai và nhóm chứng. Cuối cùng, dù nguy cơ tương đối của viêm vùng chậu cao hơn trong nhóm có dùng vòng tránh thai, nguy cơ tuyệt đối rất thấp – chỉ khoảng 1/1000 - và không có sự gia tăng nguy cơ vô sinh do vòi trứng.

Câu hỏi nảy sinh tiếp theo là, có nên dùng kháng sinh dự phòng cho những phụ nữ trước khi đặt vòng tránh thai không? Cochrane lược qua nhiều y văn cập nhật cuối năm ngoái và đi đến khuyến cáo là không nên dùng. Liều 200 mg doxycycline không làm giảm đi tỷ lệ viêm vùng chậu sau khi đặt vòng tránh thai; một tỉ lệ vốn đã rất thấp, ngay cả ở các cộng đồng Châu Phi có tỷ lệ bệnh lây truyền qua đường tình dục cao. Vấn đề chính trong thiết lập mối liên kết giữa đặt vòng tránh thai và viêm vùng chậu là chọn nhóm chứng đúng. Thường nhóm chứng là những phụ nữ có đặt vòng tránh thai nhưng không có viêm cổ tử cung và so sánh với nhóm có viêm cổ tử cung và có đặt vòng tránh thai. Đây là một so sánh không thoả đáng vì chúng ta không thể biết được có bao nhiêu người trong những người nhiễm trùng cổ tử cung sẽ tiến triển thành viêm vùng chậu. Nhóm chứng đúng là những phụ nữ có viêm cổ tử cung không có đặt vòng tránh thai - chỉ có vậy mới có thể đánh giá được hậu quả của vòng tránh thai. Những phát hiện này không làm giảm đi nhu cầu tầm soát bệnh lây truyền qua đường tình dục ở những quần thể nguy cơ cao và điều trị phù hợp nhưng lại là một đảm bảo cho tính an toàn của vòng tránh thai.

Tóm lại nhiều khảo sát cho thấy siêu âm doppler qua ngã âm đạo là một phương tiện chẩn đoán viêm vùng chậu hữu hiệu; tuy nhiên cần phải có thêm nhiều nghiên cứu nữa để khẳng định điều này. Chẩn đoán lâm sàng viêm vùng chậu vẫn tốt hơn là phó mặc cho may rủi và chúng ta đang tiếp tục dựa trên sự phòng ngừa thông qua tầm soát bệnh lây truyền qua đường tình dục, dùng kháng sinh hiệu quả nhanh để kiểm soát bệnh. Nguy cơ vòng tránh thai gây viêm cổ tử cung có lẽ bị phóng đại quá mức trong quá khứ và một vài tháng sau khi đặt vòng dù trong thực tế điều này ít xảy ra. Hiệu quả của kháng sinh dự phòng đối với những phụ nữ có đặt vòng tránh thai vẫn chưa được công nhận.
Read more…

Viêm nhiễm phụ khoa và “chuyện ấy”

01:11 |

Viêm nhiễm phụ khoa, căn bệnh làm khổ 70-80% phụ nữ ở mọi lứa tuổi. Trong cuộc đời của mộ tngười ít nhất bị một lần, nhẹ thì ngứa ngáy, nặng hơn là những bệnh lây qua đường tình dục.

Câu hỏi đặt ra: bệnh phụ khoa “ hà rầm” như thế , liệu có nên bắt ông chồng “chay tịnh” trong lúc cảm thấy bất ổn nơi “vùng chiến lược” hay cứ “làm đại” thì về lâu dài có sao không?

Vì sao viêm?

Bình thường, dịch âm đạo chứa một thảm vi khuẩn có lợi. Nếu lấy dịch đếm, chúng ta thấy từ 108 – 1.012 vi khuẩn/ml, trong đó trực khuẩn doderlein chiếm 60 – 88%, còn lại là các cầu khuẩn. Chúng sinh nở và tạo ra pH âm đạo acid, khiến các vi khuẩn “ngoại bang” không thể có cơ may xâm nhập vào được. Tuy nhiên, môi trường âm đạo là một cân bằng “động” luôn thay đổi theo chu kỳ kinh nguyệt, âm đạo ngắn và rộng nên viêm nhiễm rất dễ xảy ra.

Có bà mẹ thắc mắc “con gái tui chưa có gia đình tại sao lại có huyết trắng xanh và hôi”. Nên hiểu rằng, vách ngăn với bên trong là màng trinh còn đó nhưng bà lại không biết là đường ra của máu kinh vẫn thông. Chỉ cần vệ sinh kinh nguyệt không tốt, nguồn nước không sạch, băng vệ sinh không vô trùng thì con gái cũng bị viêm âm đạo.

Mầm bệnh thì đủ cả: quần lót ẩm ướt là môi trường thích hợp cho nấm phát triển, dùng chung chậu giặt hoặc giặt chung quần áo với mẹ trong khi mẹ bị viêm, quần lót phơi ở nơi không có nắng. Mùa hè, nhiều gia đình cho con ra hồ bơi vừa rèn luyện thân thể, vừa chống nóng. Nước hồ bơi không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, người mắc bệnh phụ khoa cũng nhảy xuống hồ thì chả khác gì gieo rắc mầm bệnh… Tất cả đều có thể lây nhiễm dễ dàng.

Các chị có chồng, âm đạo trước đây “hé” thì nay như “cửa mở toang” ra. Nếu không giữ vệ sinh khi “làm chuyện ấy” thì rất dễ bị viêm nhiễm. Ngoài viêm âm đạo, viêm cổ tử cung, chị nào bị ông chồng đào hoa còn rước bệnh từ người tình, từ “gà” ở ngoài đường về thì kể như “lãnh” cả tập đoàn vi khuẩn, siêu vi, lúc nào cũng gặp bác sĩ phụ khoa. Các chị ở nông thôn làm việc đồng áng, mồ hôi nhiều cũng góp phần làm cho “tam giác mật” ẩm ướt, rất dễ nhiễm bệnh.

Đã vậy, họ thường ngại đi khám, để đến khi chịu hết nổi mới đến bác sĩ, viêm loét cổ tử cung lâu ngày có khi xù xì như bông cải được chẩn đoán là ung thư khiến cả nhà tá hỏa. Có người được ông chồng “tặng” cho cả viêm gan B, C lẫn HIV là những siêu vi của thế kỷ, kể như cuộc đời mờ mịt.

Vậy thì bị bệnh phụ khoa có nên quan hệ?

Khi có huyết trắng, được xét nghiệm là nấm, là vi khuẩn lậu, là viêm gan B, C thì phải chữa cả cặp chứ ta thường chỉ chú ý chữa cho phụ nữ. Có chị bị nấm chữa 5 năm không hết vì ông chồng “là nhà kho” giữ bào tử nấm, mỗi lần quan hệ, anh lại chuyển giao cho vợ. Vậy, cùng chữa bệnh – cùng kiêng cữ là tốt nhất.

Hãy coi viêm nhiễm phụ khoa là “bệnh của chúng mình”, chữa dứt ngay từ khi mới có những dấu hiệu bất ổn thì sẽ không chịu gánh nặng viêm nhiễm sau này. Tim phổi, gan, thận của hai vợ chồng là “của riêng” chứ “tam giác mật” là “của chung” đã tự nguyện đem góp vào “hợp tác xã” thì cả hai đều có nghĩa vụ chăm sóc. Bảo dưỡng tốt để “máy chạy tốt”, không chỉ là giữ gìn sức khỏe sinh sản cho phụ nữ mà các anh nên hiểu đó cũng là quyền lợi của các anh nữa.
Read more…

Viêm âm đạo có biểu hiện như thế nào?

00:42 |

Viêm âm đạo là tình trạng viêm nhiễm xảy ra ở âm đạo, có thể do vi khuẩn, nấm hoặc ký sinh trùng gây ra.


Mầm bệnh gây viêm âm đạo có thể là trùng roi (Trichomonas), do nấm, do lậu cầu hay do tạp khuẩn thông thường.

Viêm âm đạo có biểu hiện như thế nào?

- Ngứa rát âm đạo, âm hộ. Tự nhiên hoặc khi giao hợp

- Khí hư: loãng, đục, hôi, màu vàng nhạt và có bọt hoặc khí hư như bột, có vảy nhỏ hoặc khí hư màu trắng, xanh đục.

- Âm đạo viêm tấy đỏ, có các nốt lổn nhổn.

Tiến triển và biến chứng của viêm âm đạo như thế nào?

Trong những đợt cấp, viêm âm đạo biểu hiện rõ ràng, dữ dội. Nếu không điều trị hoặc điều trị không triệt để, sẽ chuyễn thành viêm mạn tính và có khả năng lây truyền qua đường tình dục.

Biến chứng của viêm âm đạo là viêm cổ tử cung, viêm nội mạc tử cung, viêm phần phụ  và từ đó có thể gây vô sinh.

Viêm nhiễm có thể gây vô sinh

Điều trị viêm âm đạo như thế nào?

Viêm âm đạo có thể điều trị khỏi hoàn toàn và không để lại di chứng gì. Điều trị viêm âm đạo chủ yếu là điều trị nội khoa: dùng thuốc đặt tại chỗ và thuốc uống (tiêm).

Lựa chon các thuốc cần căn cứ vào mầm bệnh cụ thể và phải được bác sĩ chỉ định. Việc tự điều trị sẽ làm bệnh lâu khỏi và có thể có biến chứng như dính hoặc tắc đặc biệt tại vòi trứng và dẫn đến vô sinh.
Read more…

Viêm phần phụ có biểu hiện như thế nào?

00:14 |

Viêm phần phụ là tình trạng viêm nhiễm xảy ra ở vòi trứng, buồng trứng, dây chằng quanh tử cung vòi trứng. Viêm vòi trứng là tổn thương quan trọng, có thể gây vô sinh, chửa ngoài tử cung. Tổn thương buồng trứng chủ yếu là xơ hóa.

Viêm phần phụ có biểu hiện như thế nào?

Nguyên nhân của viêm phần phụ rất đa dạng: có thể là biến chứng của viêm âm hộ, âm đạo, cổ tử cung hoặc là do các thủ thuật phụ khoa không an toàn (dụng cụ tử cung, nạo hút thai…), quan hệ tình dục không an toàn.

Mầm bệnh thường gặp là tụ cầu, liên cầu, lậu cầu, chlamydia…

Viêm phần phụ có biểu hiện như thế nào?

- Đau hố chậu: thường đau hai bên, nhưn bao giờ cũng có một bên đau nhiều hơn. Đau liên tục, có thể đau âm ỉ, tăng lên khi lao động (mạn tính) hoặc đau rõ rệt, dữ dội (cấp tính).

- Sốt: sốt vừa hoặc nhẹ (37,5oC)

- Khí hư: có thể thấy khí hư ra nhiều trong đợt đau cấp.

- Ra máu bất thường trước, sau khi có kinh nguyệt.

Tiến triển và biến chứng của viêm phần phụ như thế nào?

Viêm phần phụ có thể cấp tính với các biểu hiện dữ dội (đau hố chậu hai bên, sốt cao, khí hư ra nhiều) hoặc chuyển thành giai đoạn mạn tính với các biểu hiện không rõ rệt (đau âm ỉ hai hố chậu, tức nặng, không sốt)

Các biến chứng của viêm phần phụ là ứ mủ, ứ nước vòi trứng, áp xe buồng trứng, và khi các ổ mủ này vỡ sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh. Một biến chứng nguy hiểm nữa là gây hẹp tắc vòi trứng dẫn đến vô sinh hoặc chửa ngoài tử cung.
Read more…